Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày Giỗ Tổ mồng mười tháng ba
Khắp miền truyền mãi câu ca
Nước non vẫn nước non nhà ngàn năm.
Giỗ Tổ Hùng Vương - từ rất lâu đã trở thành ngày trọng đại của cả dân tộc; đã
in đậm trong cõi tâm linh của mỗi người dân đất Việt. Dù ở phương trời nào,
người Việt Nam đều nhớ ngày giỗ Tổ, đều hướng về vùng đất Cội nguồn - xã Hy
Cương - Lâm Thao - Phú Thọ. Nơi đây chính là điểm hội tụ văn hóa tâm linh của
dân tộc Việt Nam. Từ ngàn đời nay Đền Hùng là nơi tưởng nhớ, tôn vinh công lao
các Vua Hùng, là biểu tượng của khối đại đoàn kết dân tộc Việt Nam.
Giỗ Tổ Hùng Vương - Lễ hội Đền Hùng nhằm giáo dục truyền thống yêu nước “Uống
nước nhớ nguồn”, biết ơn sâu sắc các Vua Hùng đã có công dựng nước và các bậc
tiền nhân kiên cường chống giặc ngoại xâm giữ nước.
Ngày giỗ Tổ Hùng Vương là ngày hội chung của toàn dân, ngày mà mọi trái tim dầu
ở muôn nơi vẫn đập chung một nhịp, mọi cặp mắt đều nhìn về cùng một hướng: Đền
Hùng.Lễ giỗ Tổ Hùng Vương cử hành vào ngày mồng mười tháng ba:
Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ Tổ mồng mười tháng ba
Hình 1: Nhân dân cả nước về dự lễ
Cây có gốc. Nước có nguồn. Chim tìm tổ. Người tìm tông. Trở về Đền Hùng, chúng
ta như giọt máu trở về tim. Lễ hội Đền Hùng là lễ hội truyền thống của dân tộc
Việt Nam, và có một đặc thù riêng là: Phần lễ nặng hơn phần hội. Tâm tưởng
người về dự hội là hướng về tổ tiên, cội nguồn với sự tôn kính và lòng biết ơn
sâu sắc (Ẩm hà tư nguyên - Uống nước nhớ nguồn). 41 làng xã thuộc tỉnh Vĩnh Phú
tham gia rước kiệu lễ dâng Tổ.
Từ ngàn xưa, trên các cổ kiệu có bày lễ vật, đi kèm có phường bát âm tấu nhạc,
cờ quạt, bát bửu, lọng che cùng chiêng trống. Những làng ở xa thường phải rước
2-3 ngày mới tới" . "Xưa kia, việc cúng Tổ (cử hành) vào ngày 12
tháng 3 (âm lịch) hằng năm. Thường khi con cháu ở xa về làm giỗ trước một ngày,
vào ngày 11 tháng 3 (âm lịch)... Đến thời nhà Nguyễn định lệ 5 năm mở hội lớn
một lần (vào các năm thứ 5 và 10 của các thập kỷ), có quan triều đình về cúng
tế cùng quan hàng tỉnh và người chủ tế địa phương cúng vào ngày 10 tháng 3 (âm
lịch). Do đó ngày giỗ Tổ sau này mới là ngày 10 tháng 3 (âm lịch ) hàng
năm”. ( Trích Hùng Vương và Lễ Hội Đền Hùng-NXB Hội nhà văn)
Những năm hội chính thì phần lễ gồm: Tế lễ của triều đình sau đó là phần lễ của
dân. Có 41 làng được rước kiệu từ đình làng mình tới Đền Hùng. Đó là những cuộc
hành lễ thể hiện tính tâm linh và nhân văn sâu sắc. Các kiệu đều sơn son thếp
vàng, chạm trổ tinh vi, được rước đi trong không khí vừa trang nghiêm vừa vui
vẻ với sự tham gia của các thành phần chức sắc và dân chúng trong tiếng chiêng,
trống, nhạc bát âm rộn rã một vùng. Phần hội gồm các trò chơi dân gian như đánh
vật, đu tiên, ném còn, cờ người, bắn cung nỏ... và đặc biệt là các đêm hát
xoan, hát ghẹo - hai làn điệu dân ca độc đáo của vùng đất Châu Phong.
Hình 2: Lễ hội đền Hùng
Ngày 2-9-1945, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời đánh dấu bước ngoặt lịch
sử mới của dân tộc ta. Kế tục truyền thống cao đẹp của cha ông, nhất là đạo đức
"uống nước nhớ nguồn" nên giỗ Tổ Hùng Vương 1946 - sau khi Chính phủ
mới được thành lập - là một sự kiện hết sức đặc biệt, đáng ghi nhớ. Năm ấy, cụ
Huỳnh Thúc Kháng, Phó Chủ tịch nước, đã thay mặt Chính phủ VNDCCH lên làm lễ
dâng hương tại Đền Hùng. Cụ mặc áo the, khăn xếp, khấn vái theo lễ tục cổ
truyền. Cụ còn trang trọng dâng lên bàn thờ tấm bản đồ Việt Nam và thanh kiếm
là hai vật báu nói lên ý chí của Chính phủ và nhân dân ta trước họa xâm lăng
đang đe dọa trở lại. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, do chiến tranh
ác liệt nên việc đèn hương nơi mộ Tổ do nhân dân vùng quanh Đền Hùng đảm nhiệm.
Kháng chiến thắng lợi với thiên sử vàng Điện Biên Phủ (7-5-1954), ngày
19-9-1954, tại Đền Hùng, Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu đã căn dặn cán bộ, chiến
sĩ Đại đoàn quân tiên phong trước khi về tiếp quản thủ đô: "Các vua Hùng
đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước". Lời căn
dặn cũng là lời hứa quyết tâm ấy của vị đứng đầu đất nước, dân tộc đã được thực
hiện vào mùa xuân 1975: Sau 30 năm gian khổ hy sinh, nhân dân ta đã quét sạch
bọn xâm lược ra khỏi bờ cõi, giang san thống nhất, quy về một mối vẹn toàn. Có
lẽ không một dân tộc nào trên thế giới có chung một gốc gác tổ tiên - một ngày
giỗ Tổ như dân tộc ta. Từ huyền thoại mẹ Âu Cơ đẻ ra trăm trứng, nửa theo cha
xuống biển, nửa theo mẹ lên rừng đã khơi dậy ý thức về dân tộc, nghĩa đồng bào
và gắn kết chúng ta thành một khối đại đoàn kết. Hai chữ đồng bào là khởi nguồn
của yêu thương, đùm bọc, của sức mạnh Việt Nam.
Hình 3: Bác Hồ ở đền Hùng
Năm 1995, ngày Giỗ Tổ Hùng Vương đã
được Ban Bí thư ghi trong thông báo là ngày lễ lớn trong năm. Ngành Văn hóa
thông tin - thể thao phối hợp với các ngành chức năng đã tổ chức lễ hội trong
thời gian 10 ngày (từ 1/3 đến 10/3 âm lịch).Tại Nghị định số 82/2001/NĐ-CP ngày
06/11/2001 về Nghi lễ Nhà nước, trong đó có nội dung quy định cụ thể về quy mô
tổ chức Giỗ Tổ Hùng Vương, cụ thể như sau:
“Năm chẵn” là số năm kỷ niệm có chữ số cuối cùng là “0”; Bộ Văn
hoá - Thông tin và Ủy ban Nhân dân tỉnh Phú Thọ tổ chức Lễ hội; mời đại diện
lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các đoàn thể dự Lễ dâng hương.
“Năm tròn” là số năm kỷ niệm có chữ số cuối cùng là “5”; Ủy
ban Nhân dân tỉnh Phú Thọ tổ chức lễ hội; mời đại diện lãnh đạo Đảng, Nhà nước,
Quốc hội, Chính phủ, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn
thể dự Lễ dâng hương.
“Năm lẻ” là số năm kỷ niệm có các chữ số cuối cùng còn lại. Ủy ban
Nhân dân tỉnh Phú Thọ tổ chức lễ hội; mời lãnh đạo Bộ Văn hoá - Thông tin dự lễ
dâng hương và tổ chức các hoạt động trong lễ hội.
Ngày 02/4/2007, Quốc Hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã
phê chuẩn sửa đổi, bổ sung Điều 73 của Luật Lao động cho người lao động được
nghỉ làm việc, hưởng nguyên lương ngày Giỗ Tổ Hùng Vương (10/3 âm lịch). Kể từ
đây, ngày 10/3 âm lịch hàng năm đã trở thành ngày lễ lớn - QUỐC LỄ mang
ý nghĩa bản sắc văn hóa dân tộc./.
Hình 4: Giỗ tổ Hùng Vương được Unesco công nhận
là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại
Trong giỗ tổ, nhân dân cả nước có điều kiện để tham gia vào các
hoạt động văn hóa thể hiện lòng thành kính tri ân các Vua Hùng đã có công dựng
nước và các bậc tiền nhân đã vì dân giữ nước. Mấy nghìn năm trông coi và gìn
giữ, đánh giặc và dựng xây, Đền Hùng đã trở thành biểu tượng của tinh thần dân
tộc, là cội nguồn của sức mạnh, niềm tin, chói sáng của một nền văn hóa. Từ
trong ý thức tâm linh cả dân tộc luôn hướng về: "Nước mở Văn Lang xưa/
Dòng vua đầu viết sử/ Mười tám đời nối nhau/ Ba sông đẹp như vẽ/ Mộ cũ ở lưng
đồi/ Đền thờ trên sườn núi/ Muôn dân đến phụng thờ/ Khói hương còn mãi
mãi".
Lịch sử như một dòng chảy liên tục. Trải mấy nghìn năm, trước bao
biến động thăng trầm, trong tâm thức của cả dân tộc, Đền Hùng vẫn là nơi của
bốn phương tụ hội, nơi con cháu phụng thờ công đức Tổ tiên.
Không chỉ người Việt chúng ta tự hào về Đền Hùng, mà tìm vào những
dòng lưu bút của các đoàn đại biểu quốc tế và bạn bè khắp năm châu bốn biển
từng đến thăm viếng Đền Hùng, chúng ta thật sự xúc động khi được biết Đền Hùng
và các di tích trên Nghĩa Lĩnh đã làm cho cả thế giới phải cúi đầu vị nể ý thức
cội nguồn dân tộc của chúng ta. Nhiều dòng lưu bút thừa nhận.
"Đền Hùng là nơi đặt nền móng cho lịch sử Việt Nam... Đền
Hùng là một di tích vô giá của nhân dân Việt Nam. Đây là biểu tượng của tổ tiên
dân tộc Việt Nam - một dân tộc đã có truyền thống dựng nước và giữ nước hàng
nghìn năm".
Nguồn: Sưu tầm